1/. Nguyên lý định lượng ethanol
Etahnol được định lượng theo phương pháp động học enzym.
ADH
Ethanol + NAD -----------------------------------> acetaldehyde + NADH + H+
Ethanol và NAD được chuyển đổi thành acetaldehyd và NADH bởi ADH (alcoldehydrogenase). Các NADH được hình thành trong quá trình phản ứng làm thay đổi độ hấp thụ, nồng độ ethanol được đo ở bước sóng 340nm.
2/. Lấy bệnh phẩm như thế nào?
- Sát trùng vị trí chọc tĩnh mạch lấy máu bằng dung dịch sát khuẩn không có Ether, cồn..
- Lấy 3 ml máu tĩnh mạch vào ống không có chất chống đông hay ống có chất chống đông là Li-Heparin và EDTA. Ống lấy máu phải đạt tiêu chuẩn và nút đảm bảo chặt , kín. Máu cần chuyển tới phòng xét nghiệm trong vòng 30 phút. . (Nếu xét nghiệm này được sử dụng để cung cấp một bằng chứng pháp lý sau này khi lấy bệnh phẩm cần có
Người chứng kiến)
- Máu cần được ly tâm ngay tách lấy huyết thanh hoặc huyết tương. Bệnh phẩm ổn định 2 ngày ở 15- 25oC, 2 tuần ở 2- 8oC, 4 tuần ở (-15)- (-25)oC. Nếu chống đông bằng Na Fluorid thì bệnh phẩm ổn định được 2 tuần ở 25oC, 3 tháng ở 5oC, 6 tháng ở -15oC.
3/ Nhận định kết quả như thế nào: Bình thường nồng độ Cồn trong máu bằng : 0
*/ Nồng độ Ethanol <10.9 mmol/L: không có biểu hiện gì đặc biệt
*/ Nồng độ Ethanol 10.9 →21.7 mmol/l: Biểu hiện đỏ mặt, nôn mửa, phản xạ chậm chạp, giảm nhạy bén.
*/ Nồng độ Ethanol > 21.7 mmol/l: tùy theo nồng độ Ethanol mà bệnh nhân có biểu hiện ức chế thần kinh trung ương; Thời gian phản ứng chậm, khả năng cảm giác bị biến đổi. Đi đứng loạn choạng, nôn, ý thức lú lẫn → Nói líu, mất cảm giác, rối loạn thị lực→ Giảm thân nhiệt, hạ đường huyết, kiểm soát cơ kém, co giật →Mất ý thức, giảm phản xạ, suy hô hấp
*/Nồng độ Ethanol > 86.8 mmol/l: Có thể gây nguy hại cho tính mạng (tử vong)
4/ Những yếu tố gây sai sót cho kết quả xét nghiệm
- Kết quả xét nghiệm không bị ảnh hưởng khi: huyết thanh vàng, tan huyết, huyết …
- Nồng độ cồn trong máu có thể bị tăng lên khi BN dùng đồng thời với các thuốc như: thuốc kháng histamin, barbiturat, chlordiazepoxid, diazepam, isoniazid, meprobamat, opiat, phenyltoin và thuốc an thần.
5/ Lợi ích của xét nghiệm định lượng cồn trong máu.
Nồng độ cồn trong máu tiến triển theo thời gian: tăng rất cao sau 30 phút – 1h giờ và được thải trừ sau 4-5h. Trong trường hợp có suy gan: đường biểu diễn cồn trong máu tăng cao hơn và nồng độ định xảy ra sớm hơn (25 phút). Đường biểu diễn tình trạng tăng lên của nồng độ cồn trong máu xảy ra chậm hơn và ở mức thấp hơn khi hấp thụ rượu xảy ra trong và sau bửa ăn, hay khi hấp thu rượu cùng với đường. Nồng độ cồn tối đa trong máu được phép theo luật định tại Pháp là 0,8g/L, tuy nhiên, tình trạng say xỉn đã có thể xảy ra từ mức nồng độ 0,5 g/L. Hôn mê do ngộ độc rượu có thể được đặt ra khi nồng độ cồn trong máu ³ 2,5 g/L (tình trạng này có thể đi kèm với hạ đường máu, hay nhiễm toan ceton do rượu. Tử vong có thể xảy ra khi nồng độ cồn trong máu
Đạt tới ngưỡng 5g/L
*/Theo tiêu chuẩn của Pháp: người lái xe được coi là trong tình trạng say xỉn khi họ có nồng độ cồn trong khí thở > 0,4g/L (được đo 2 lần liên tiếp qua ống thổi) hay khi nồng độ cồn trong máu > 0.8 g/L
*/ Tại Việt Nam: nồng độ cồn trong máu: 0,5g/L (CV số 43 /BHYT- GĐ BHYT )
6/. Các cảnh báo lâm sàng
Các Xét nghiệm khác như công thức máu, nồng độ glucose máu và điện giải thường được chỉ định thực hiện cùng với định lượng nồng độ cồn trong máu do một số tình trạng lâm sàng liên quan với các rối loạn nói trên, cũng có thể gây các triệu chứng tương tự như triệu chứng ngộ độc rượu. Xét nghiệm thực hiện 24/24 giờ; 7/7 ngày trong tuần.
Hệ thống sinh hóa tự động AU 5800
khoa Sinh hóa, bệnh viện trung ương Thái Nguyên