BISPHOSPHONATES: NGUY CƠ HOẠI TỬ XƯƠNG ỐNG TAI NGOÀI

Trong ấn phẩm Drug Safety Update phát hành ngày 14/12/2015, Medicines and Healthcare products Regulatory Agency (MHRA) thông báo tới các cán bộ y tế về việc cập nhật nguy cơ hoại tử xương ống tai ngoài của các thuốc Bisphosphonates.

Các bisphosphonates như axit Alendronic, acid ibandronic, dinatri pamidronate, natri risedronat, natri clodronate, acid zoledronic được sử dụng để điều trị loãng xương, bệnh Paget, và  là một phần của một số phác đồ điều trị ung thư, đặc biệt đối với ung thư xương di căn và đa u tủy. Tại thời điểm cảnh báo trên thế giới đã ghi nhận 29 trường hợp hoại tử xương ống tai ngoài khi dùng bisphosphonat đường tiêm tĩnh mạch hoặc uống sử dụng cho cả các chỉ định liên quan đến ung thư và loãng xương và y văn đã ghi nhận 11 trường hợp. Hầu hết các trường hợp đều liên quan đến sử dụng bisphosphonat trong thời gian dài (≥ 2 năm) và có các yếu tố nguy cơ khác như sử dụng steroid.

Khuyến cáo cán bộ y tế:

• Cân nhắc nguy cơ hoại tử xương ống tai ngoài ở những bệnh nhân dùng bisphosphonates có triệu chứng về tai như nhiễm trùng tai mãn tính, hoặc ở những bệnh nhân nghi ngờ cholesteatoma.

• Các yếu tố nguy cơ như sử dụng steroid và hóa trị, có kèm hoặc không kèm các yếu tố nguy cơ khác như nhiễm trùng hoặc chấn thương.

• Nhắc nhở bệnh nhân cần báo cáo ngay cho cán bộ y tế khi gặp các triệu chứng như đau tai, mủ tai hoặc nhiễm trùng tai trong quá trình điều trị bisphosphonate.

 (Nguồn:https://www.gov.uk/drug-safety-update/bisphosphonates-very-rare-reports-of-osteonecrosis-of-the-external-auditory-canal)

 

THẬN TRỌNG KHI SỬ DỤNG TEICOPLANIN

Ở BỆNH NHÂN QUÁ MẪN VANCOMYCIN

Tháng 4/2017, Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc (Trung tâm DI & ADR Quốc gia) đã nhận được báo cáo về một bệnh nhân nam, 14 tuổi, sử dụng kháng sinh teicoplanin, dung môi glucose 5% để điều trị vết mổ. Sau khi dùng thuốc hơn một giờ, bệnh nhi có biểu hiện thở nhanh, rét run, sốt cao 38,9oC, mạch nhẹ 114 lần/phút, huyết áp 95/60 mmHg, SpO2 80% và được xử trí bằng methylprednisolon tiêm tĩnh mạch, thở oxy. Thuốc nghi ngờ teicoplanin vẫn tiếp tục được sử dụng, nhưng được pha loãng và kéo dài thời gian truyền. Hai ngày sau, bệnh nhi nổi ban đỏ và ngứa toàn thân. Khai thác tiền sử cho thấy bệnh nhi đã từng bị nổi ban đỏ nhiều, ngứa sau truyền vancomycin. Mặc dù đây là phản ứng liên quan đến teicoplanin ở bệnh nhân có tiền sử dị ứng với vancomycin xảy ra ở Việt Nam duy nhất mà Trung tâm ghi nhận được tính đến nay, nhưng teicoplanin đã được phê duyệt có thể dùng thay thế vancomycin trong một số trường hợp nhiễm khuẩn, nên Trung tâm DI & ADR Quốc gia đã rà soát lại các thông tin trong y văn liên quan đến việc thay thế này.

Thông tin y văn:

Teicoplanin và vancomycin là các kháng sinh glycopeptid, tương tự nhau về cấu trúc hóa học, cơ chế tác dụng, phổ tác dụng và đường thải trừ. Các phản ứng có hại liên quan đến vancomycin hoặc teicoplanin bao gồm hội chứng người đỏ, sốt, nổi ban, giảm bạch cầu, giảm bạch cầu trung tính, giảm tiểu cầu, độc tính trên thận, hội chứng quá mẫn do thuốc và các phản ứng khác.

Năm 2010, một tổng quan hệ thống so sánh tác dụng của teicoplanin và vancomycin trong điều trị một số bệnh nhiễm khuẩn cho thấy tác dụng của teicoplanin tương đương với vancomycin về tỷ lệ điều trị khỏi trên lâm sàng, điều trị khỏi về vi sinh học và tử vong. Tuy nhiên, tổng số trường hợp tử vong thấp nên đánh giá về tác dụng của các thuốc với tiêu chí tử vong có thể chưa hoàn toàn chính xác. Trước đó, một tổng quan khác cũng kết luận teicoplanin không thua kém vancomycin về hiệu quả điều trị và ít gây ra biến cố bất lợi hơn vancomycin, bao gồm các biến cố yêu cầu ngừng điều trị, độc tính trên thận và hội chứng người đỏ.

Theo Dược thư Quốc gia Việt Nam, teicoplanin có thể được dùng thay thếvancomycin trong điều trị và dự phòng nhiễm khuẩn Gram dương hiếu khí và yếm khí nặng, khi các thuốc khác không còn tác dụng. Teicoplanin cũng có thể dùng thay thế vancomycin hoặc metronidazol trong viêm đại tràng do kháng sinh. Khi phối hợp với các kháng sinh nhóm aminoglycosid, teicoplanin không làm tăng độc với thính giác hoặc thận; vì vậy, teicoplanin phối hợp với gentamicin được dùng thay thế vancomycin vàgentamicin trong dự phòng viêm nội tâm mạc. Tuy nhiên, việc sử dụng teicoplanin ở bệnh nhân quá mẫn với vancomycin không phải lúc nào cũng phù hợp và thường không được khuyến khích.

Phản ứng chéo giữa vancomycin và teicoplanin đã được ghi nhận trong nhiều tài liệu, bao gồm các trường hợp nghiêm trọng, đe dọa tính mạng, như hội chứngStevens-Johnson, hội chứng quá mẫn do thuốc, viêm mạch, phản ứng trên huyết học (đặc biệt là giảm bạch cầu trung tính), co thắt phế quản. Nguyên nhân có thể do vancomycin và teicoplanin có cấu trúc hóa học tương tự nhau, nên kháng thể của một trong các thuốc này được cho rằng sẽ có phản ứng chéo với thuốc còn lại. Đây là phản ứng hiếm gặp, có thể do số trường hợp bệnh nhân dị ứng với vancomycin được chuyển sang sử dụng teicoplanin tương đối thấp.

Theo nghiên cứu của Yuan-Pin Hung và cộng sự trên các bệnh nhân gặp phản ứng sốt, nổi ban hoặc giảm bạch cầu trung tính do vancomycin, có khoảng 10% (12/117) gặp lại phản ứng đó sau khi chuyển sang sử dụng teicoplanin. Tuy nhiên, số trường hợp bệnh nhân giảm bạch cầu trung tính dovancomycin xuất hiện lại phản ứng này sau khi dùng teicoplanin có thể lên đến 50% (4/8). Do đó, với bệnh nhân giảm bạch cầu trung tính do vancomycin, cần thận trọng khi thay thế vancomycin bằng teicoplanin, thậm chí nên cân nhắc coi giảm bạch cầu trung tính do vancomycin là một chống chỉ định sử dụng teicoplanin để thay thế chovancomycin.

Khuyến cáo cho cán bộ y tế:

Cần thận trọng cân nhắc khi sử dụng teicoplanin ở bệnh nhân có tiền sử dị ứng với vancomycin do nguy cơ phản ứng quá mẫn chéo bao gồm sốc phản vệ có thể xảy ra.

Cần lưu ý, tiền sử “hội chứng người đỏ” với vancomycin không phải là một chống chỉ định sử dụng teicoplanin.

 Linezolid có thể là một lựa chọn thay thế an toàn và hiệu quả cho bệnh nhân gặp hội chứng quá mẫn do thuốc liên quan đến phản ứng chéo giữa vancomycin và teicoplanin

(Nguồn: Thông tin thuốc-Cảnh Giác Dược Số 2/2017

https://magazine.canhgiacduoc.org.vn/Magazine/Details/187)

 

NSAID: KHÔNG SỬ DỤNG TỪ THÁNG THỨ 6 CỦA THAI KỲ

Thông tin y tế:

 Một số lượng lớn phụ nữ có thai vẫn đang phơi nhiễm với Các thuốc chống viêm không steroid(NSAID) từ tháng thứ 6 của thai kỳ. Cơ quan Quản lý Dược phẩm Pháp (ANSM) đã nhắc lại chống chỉ định của các NSAID (như ibuprofen, ketoprofen, diclofenac, …) và cả aspirin từ tháng thứ 6 của thai kỳ với bất kể thời gian và đường dùng nào của thuốc. Các thuốc này có thể gây ra độc tính cho thai nhi, ngay cả khi chỉ sử dụng 1 liều duy nhất, với nguy cơ tổn thương thận và tim phổi có thể gây tử vong cho thai nhi hoặc trẻ sơ sinh.

NSAID được sử dụng trong nhiều tình trạng bệnh lý, đặc biệt trong giảm đau, hạ sốt và chống viêm (khớp). Trong đó, có nhiều thuốc được cấp phát không cần đơn và có thể sử dụng để tự điều trị.

Các dữ liệu ban đầu của một nghiên cứu cho thấy một số lượng lớn phụ nữ có thai vẫn được kê đơn với NSAID từ khi bắt đầu tháng thứ 6 thai kỳ, mặc dù sử dụng này là một chống chỉ định đã được quy định rõ trong thông tin của thuốc khi lưu hành.

Khuyến cáo cho cán bộ y tế:

ANSM đã nhắc lại đối với phụ nữ có thai, người thân và các cán bộ y tế rằng các NSAID bị chống chỉ định từ đầu tháng thứ 6 của thai kỳ (khoảng tuần thứ 24 sau khi hết kinh nguyệt). Chống chỉ định này áp dụng với mọi loại NSAID, bao gồm cả aspirin (acid acetylsalicylic), bán theo đơn hoặc bán không cần đơn (OTC), với bất kể khoảng thời gian và đường dùng nào của thuốc (đường uống, đường tiêm hay ngoài da). Đặc biệt, chống chỉ định sử dụng các thuốc chứa celecoxib và etoricoxib trong toàn bộ thai kỳ.

Cần có hướng dẫn cụ thể về các liệu pháp thay thế dùng thuốc và không dùng thuốc trong từng giai đoạn của thai kỳ.

Cần luôn luôn cảnh giác ngăn ngừa sử dụng NSAID ở phụ nữ có thai trong giai đoạn nhạy cảm trên (bất kể là kê đơn hay tự điều trị).

Lưu ý cần đánh giá lại tất cả các điều trị bằng thuốc nói chung ở phụ nữ có thai. Đặc biệt, cho đến tháng thứ 5 của thai kỳ, NSAID chỉ được sử dụng khi thật sự cần thiết, với liều thấp nhất có hiệu quả và trong khoảng thời gian ngắn nhất.

(Nguồn: Trung tâm DI và ADR Quốc Gia)

 

LƯU Ý KHI SỬ DỤNG THUỐC GÂY MÊ TOÀN THÂN VÀ THUỐC AN THẦN

CHO PHỤ NỮ CÓ THAI VÀ TRẺ NHỎ.

Thuốc gây mê và thuốc an thần cần thiết cho trẻ sơ sinh, trẻ em và phụ nữ mang thai trong trường hợp cần tiến hành phẫu thuật hoặc thủ thuật khác gây đau và stress, đặc biệt trong trường hợp đe dọa tính mạng và không thể trì hoãn phẫu thuật. Ngoài ra, việc không điều trị giảm đau có thể gây hại cho trẻ và ảnh hưởng đến hệ thần kinh đang phát triển của trẻ. FDA Hoa Kỳ cũng khuyến khích cán bộ y tế báo cáo các biến cố bất lợi ghi nhận được liên quan đến các thuốc này. Ngày 14/12/2016, Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA Hoa Kỳ) đã thông báo về việc sử dụng lặp lại hoặc kéo dài thuốc gây mê toàn thân và thuốc an thần khi tiến hành phẫu thuật hoặc thủ thuật ở trẻ dưới 3 tuổi hoặc phụ nữ mang thai ở 3 tháng cuối của thai kỳ có thể ảnh hưởng đến sự phát triển não bộ của trẻ. 

Khuyến cáo cho các cán bộ y tế:

Cần đánh giá cân bằng lợi ích - nguy cơ khi sử dụng thuốc gây mê trên trẻ nhỏ và phụ nữ mang thai, đặc biệt khi tiến hành các thủ thuật can thiệp có thể kéo dài hơn 3 giờ hoặc tiến hành nhiều thủ thuật cho trẻ em dưới 3 tuổi.

 (Nguồn: Trung tâm DI và ADR Quốc gia 5/2017)